485. Xuất huyết dưới màng nhện
Biện chứng đông y: ứ huyết nội trở, uất lâu sinh nhiệt, nhiệt làm tổn thương kinh mạch, huyết không đi đúng đường tràn ra mà thành bệnh.
Cách trị: Hành khí hoạt huyết, khử ứ sinh tân.
Đơn thuốc: Huyết phủ trục ứ thang.
Công thức: Đương quy 9g, Sinh địa hoàng 15g, Đào nhân 15g, Hồng hoa 9g, Chỉ thực 9g, Xích thược 15g, Sài hồ 6g, Cam thảo 3g, Cát cánh 4,5g, Xuyên khung 4,5g, Ngưu tất 9g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Triệu XX, nữ, 11 tuổi. Vào viện ngày 10-11-1973. Giữa trưa hôm đó bệnh nhi muốn ra ngoài chơi, đột nhiên hôn mê ngã lǎn ra đất, nôn, vội vàng đưa đến bệnh viện cấp cứu. Khám thấy: thân nhiệt 36,7 độ C, mạch đập 98 lần/phút, huyết áp 110/60 mmHg, bạch cầu 32.400/mm3, đang trong trạng thái hôn mê, sắc mặt trắng bệch, phản xạ với ánh sáng chậm, cổ cứng, chân tay lạnh, tim phổi gan lách không có gì khác thường. Cho tiêm penixillin, gentamyxin và truyền dịch. Ngày thứ ba sau khi vào viện, bệnh tình vẫn chưa đỡ, vẫn ở trạng thái nửa hôn mê, thân nhiệt 38,3 độ C, đồng tử bên phải to hơn bên trái, phản xạ với ánh sáng chậm, rãnh mũi mép phía bên phải nông, cổ cứng rõ rệt, Kerning và Brudzinski đều dương tính, phía bên phải rõ rệt. Sau khi vào viện 4 ngày, tiến hành chọc ống sống, dịch não tủy có máu, phần trên trong, có màu vàng nhạt, chẩn đoán lâm sàng là xuất huyết dưới màng nhện. Đông y nhận định rằng chủ yếu là ứ huyết nội trở, tràn ra thành bệnh, cần phải hành khí hoạt huyết, khử ứ sinh tân. Sau khi khám cho dùng "Huyết phủ trục ứ thang". Dùng thêm ít thuốc trấn tĩnh Aminazin, Luminal. Uống được 10 thang giảm nhiều đau đầu, các triệu chứng kích thích màng não đã hết, tinh thần khá lên. Xét nghiệm lại dịch não tủy, các chỉ tiêu đều trở về bình thường. Tiếp tục chǎm sóc thì tình trạng cháu bé ổn định, bệnh khỏi. Ngày 17-12-1973 ra viện.
Bàn luận: Bài thuốc "Huyết phủ trục ứ thang" nguyên lấy từ "Y lâm cải thác", có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, chủ trị ứ huyết ngưng trở, kiêm can khí uất trệ, có các triệu chứng như đau ngực, đau mạng sườn, đau đầu mất ngủ, tim đập hồi hộp, hay tức giận, trong y vǎn đã ghi lại không ít người dùng bài thuốc này để trị đau thắt ngực, các di chứng sau chấn động sọ não, đều có kết quả tốt. Chúng tôi điều trị xuất huyết dưới màng nhện, đã quan sát trên lâm sàng nhiều nǎm, thấy kết quả khả quan. Từ thực tế đó nhận thấy rằng nếu bệnh ở giai đoạn đầu, thoạt tiên nên dùng "Tê giác địa hoàng thang gia giảm" để lương huyết cầm máu, chờ bệnh tình ổn định, lại cho dùng "Huyết phủ trục ứ thang", thì kết quả sẽ lý tưởng.
486. Xuất huyết dưới màng nhện
Biện chứng đông y: Phong đàm trúng tạng phủ, che lấp thanh khiếu.
Cách trị: Hóa đàm khử ứ, sơ thông kinh lạc.
Đơn thuốc: Ôn đảm thang (gia giảm).
Công thức: Chế bán hạ 6g, Trần bì 6g, Phục linh 6g, Cam thảo 3g, Trúc nhự 9g, Chỉ xác 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Trên lâm sàng, chúng tôi đã sử dụng bài thuốc Ôn đảm thang có gia giảm một cách biện chứng, điều trị cho hơn 20 trường hợp đều thu được kết quả khá tốt. Vương X X, nam, 53 tuổi, xã viên. Ngày 4-6-1976, buổi chiều đi làm về bỗng nhiên thấy đau đầu, nôn, hôn mê bất tỉnh, cáng đến bệnh viện huyện, lấy nhiệt độ ở hậu môn 37°C, huyết áp 160/80mmHg, hô hấp 21 lần/phút, mạch đập 60 lần/phút, người không tỉnh táo, đồng tử to bằng nhau, phản xạ giác mạc rất chậm, mất phản xạ sâu, tim phổi bình thường, không sờ thấy gan lách. Sơ chuẩn cho là tai biến mạch máu não, nên đã điều trị cầm máu, chống nhiễm khuẩn, giảm áp lực nội sọ, hút đờm, cho thở oxy cấp cứu. 3 này sau bắt đầu tỉnh lại. Sau khi tỉnh, chân tay có thể hơi động đậy, không có triệu chứng định khu rõ rệt, xét nghiệm dịch não tủy thấy màu vàng nâu, thử nghiệm Pandy (++), bạch cầu 40.000/mm3, hồng cầu 100.000/mm3, đường huyết 50mg%. Do đó chuẩn đoán xác định là xuất huyết dưới màng nhện. 7 ngày sau bệnh nhân lại dần dần hôn mê, nói năng mê sảng không rõ ràng, trong cổ họng có tiếng đờm rít, rêu lưỡi trắng bẩn, mạch huyền hoạt. Chứng này thuộc về phong đàm trúng tạng phủ, che lấp thanh khiếu, cần trị bằng phép hóa đàm khử ứ, sơ thông kinh lạc. Cho dùng bài thuốc Ôn đảm thang, thêm Điền tam thất (bột) 6g, Tần giao 12g, Đảm nam tinh 9g, dùng tất cả 10 thang, người tỉnh táo, nói năng lưu loát, tự kể trong cổ họng đã hết đờm, chân tay đã giờ lên hạ xuống được, có người đỡ đã ngồi dậy được mấy phút, ăn được, nhưng người còn rất mỏi mệt, không đi được, lại cho dùng tiếp bài thuốc trên thêm Hoàng kì 30g, Tây đảng sâm 15g, Địa long 99g, Đương quy 9g, để bổi ích khí huyết. Uống tiếp 10 thang, nếu có người đỡ đã có thể vào nhà tiêu, rửa mặt tự chăm sóc mình. Nằm viện được 22 ngày thì xin ra. Khi về nhà có mang theo 15 thang thuốc tiếp tục uống. Hai tháng sau tới thăm lại, bệnh nhân đã hoạt động được bình thường, cũng đã có thể làm được một số công việc chân tay nhẹ.
Bàn luận: Bài thuốc “Ôn đảm thang” nguyên lấy từ “Thiên kim phương” trong bài thuốc này có Bán hạ cay nóng, tỉnh táo, có tác dụng táo thấp hóa đàm, hòa trung mà chống nôn mửa; Trần bì lí khí hóa đàm, khi thuận thì đàm giáng xuống; Phục linh kiện tì lợi thấp, dẫn đàm thấp xuống hạ tiêu mà tan đi; Cam thảo hòa trung bổ thổ, cắt nguồn gốc của đờm, tì vượng thì đờm không thể sinh ra được; Chỉ xác phá khí hành đàm, giúp sức cho trần bì. Khéo là ở vị Trúc nhự, tính cam hơi hàn, thanh nhiệt chống nôn, khu đàm khai uất, thông các kinh vào bách lạc, dẫn các vị thuốc vào tận nơi có bệnh. Người xưa dùng bài thuốc này củ trị đàm nhiệt lên nhiễu ở trên, hư phiền mất ngủ, tim đập hồi hộp, nôn mửa, chảy rãi. Chúng tôi dùng để trị chứng phong đàm trúng tạng phủ, che lấp thanh khiếu, cũng thu được kết quả tốt.
487. Xuất huyết dưới màng nhện
Biện chứng đông y: Ứ huyết nội trở, đường kinh không thông.
Cách trị: Hoạt huyết hóa ứ, thông kinh chỉ thống.
Đơn thuốc: Gia giảm hóa ứ chỉ thống thang.
Công thức: Đương quy 10g, Xích thược 9g, Đào nhân 9g, Hồng hoa 9g, Xuyên khung 6g, Đan sâm 9g, Bột điên thất 3 đến 6g (uống với nước thuốc), Sinh địa 12g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang. Với người can hỏa thịnh, có thể thêm Linh dương giác, Hoàng liên, Long đảm thảo với liều lượng thích hợp; với người can dương xung lên đầu, có thể thêm Câu đẳng, Bạch thược, Sinh long cốt, Sinh mẫu lệ; với người nhiệt kết ở vị tràng, đại tiện không thông có thể thêm Đại hoàng, lượng vừa đủ (cho vào sau).
Hiệu quả lâm sàng: Đã theo dõi tỉ mỉ quá trình sử dụng “Gia giảm hóa ứ chỉ thống thang” điều trị cho 2 bệnh nhân xuất huyết dưới màng nhện, đều thấy khỏi bệnh trong thời gian ngắn.
488. Xuất huyết dưới màng nhện
Biện chứng đông y: Can phong hiệp đờm, lên cho thanh khiếu.
Cách trị: Bình can tiềm dương, khứ phong hóa đàm, khai khiếu tinh thần.
Đơn thuốc: Bình can phục tỉnh thang.
Công thức: Trân châu mẫu 30g (sắc trước), Thạch quyết minh 30g (sắc trước), Bạch thược 9g, Câu đẳng non 15g, Cúc hoa 15g, Thạch xương bồ 9g, Đảm nam tinh 3g, Thiên trúc hoàng 9g, Uất kim 9g, Chỉ thực 6g, Linh dương giác (bột)0,6g (uống với nước thuốc). Sắc uống, dùng khi bị hôn mê.ads: tuyển sinh cao đẳng dược phú thọ và cao đẳng dược hà nội năm 2016
Hiệu quả lâm sàng: Tống X X, nữ, 75 tuổi. Bệnh nhân vốn mắc bệnh tăng huyết áp, người bếu bệu, sắc mặt hồng nhuận, 4 ngày trước vì nóng giận nên cảm thấy tức ngực, tức thở, trong lòng không vui, sau đó bỗng nhiên cảm thấy đau đầu, nôn, dần dần kém tỉnh táo, rồi hôn mê bất tỉnh. Sau khi khám, chuẩn đoán là xuất huyết dưới màng nhện. Chất lưỡi đỏ bầm, mạch huyền hoạt. Tổng hợp mạch và chứng, thấy bệnh này thuộc về can phong hiệp đờm lên cho thanh khiếu. Cho uống ngày 1 thang “ Bình can phục tỉnh thang”, uống xong thì tỉnh. Hai ngày sau bệnh nhân lại hôn mê, lại cho uống 1 thang nữa, bệnh nhân lại tỉnh.
Bàn luận: “Bình can phục tỉnh thang” là bài thuốc kết hợp Linh dương câu đẳng thang và Địch đờm thang gia giảm mà thành.