367. Viêm gan mạn
Biện chứng đông y: Can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ, thấp nhiệt chưa thanh.
Cách trị: Kiện tỳ sơ can, hoạt huyết hóa ứ, phối hợp thêm thanh nhiệt lợi thấp.
Đơn thuốc: ích can thang.
Công thức: Đảng sâm 12g, Bạch truật (sao) 10g, Thương truật (sao) 10g, Hoắc hương 10g, Nhân trần 15 g, Đương quy 12g, Hương phụ 10g, Phật thủ 10g, Sơn trà 15g, Trạch lan 15g, Sinh mẫu lệ 15g, Vương bất lưu hành 12g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Trần XX, nam 23 tuổi đến khám tháng 5 nǎm 1971. Nǎm 1964, bệnh nhân mắc bệnh viêm gan do virus cấp tính, đã điều trị nửa nǎm tại một bệnh viện, các triệu chứng và các chức nǎng gan đều đã có chuyển biến tốt và ra viện. Nhưng xuất viện mấy nǎm rồi vẫn thường đau ở vùng gan, khi mệt nhọc lại càng đau thêm. Tháng 10-1970 bắt đầu thấy đau ở vùng lách, đến tháng 5-1971 hai bên sườn đau nặng thêm, tay chân bải hỏai, không muốn ǎn uống, đại tiện lỏng, lòng bàn chân tay nóng. Khám thấy tình trạng nói chung còn khá, bờ gan trên ở giữa sườn số 5, bờ dưới ở 2 cm dưới mép sườn trên đường vạch giữa đòn, chất gan mềm sờ đau, có thể sờ được lách tới 1cm, sờ hơi đau, mu tay phải có thể thấy bờ rǎng cưa. Xét nghiệm: chức nǎng gan trong phạm vi bình thường, tiểu cầu 120.000/mm3. Rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoạt. Cho dùng "ích can thang". Trong quá trình điều trị, đã gia giảm sử dụng Bội lan 10g, Sinh dĩ mễ 15g, Hồng hoa 12g, Miết giáp 12g. Đồng thời dùng cả các thuốc tây trợ gan. Sau hơn 2 tháng dùng thuốc thấy các triệu chứng đã chuyển biến tốt, ǎn ngủ và đại tiểu tiện bình thường, chân tay đỡ bải hỏai, lòng bàn tay chân không còn nóng, giảm hẳn đau ở vùng gan tì, gan ở dưới sườn 1cm, sờ không thấy đau rõ, chưa sờ thấy lách. Xét nghiệm lại chức nǎng gan cũng chưa thấy gì khác thường, tiểu cầu tǎng lên tới 168.000/mm3. Sau đó dùng bài trên làm thành hoàn mà uống để củng cố tác dụng về sau.
Bàn luận: Bệnh nhân này sưng gan và lách, xét nghiệm chức nǎng gan bình thường mà chân tay lại bải hỏai, không thích ǎn uống, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoạt. Đó là các chứng thuộc can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ, hai bên sườn đau chướng, mạch hoạt, chứng tỏ là thấp nhiệt chưa thanh. Bởi vậy trong sự phù chính thì nặng về kiện tỳ thư can. Trong bài có Đảng sâm, Thương bạch truật (sao), Kiện tỳ tháo thấp, Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết nhu can, lại phối hợp các thuốc sơ can lý khí và hoạt huyết hóa ứ, khí hành ắt là huyết dễ hoạt, huyết hoạt ắt ứ dễ trừ, như vậy có tể có hiệu lực điều trị mong muốn.
368. Viêm gan mạn
Biện chứng đông y: Tì khí hư nhược.
Cách trị: Kiện tì bổ khí, phù thổ ức mộc.
Đơn thuốc: Mạn can lục vị ẩm.
Công thức: Thái tử sâm 15g, Phục linh 15g, Bạch truật 12g, Xuyên tì giải 10g, Hoàng bì thu diệp 15g, Cam thảo 5g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Hoa X, nữ 40 tuổi, cán bộ. Đã hơn một năm bị viêm gan thể không vàng da, không công tác được đã mấy tháng. Người mệt mỏi, kém ăn, sườn đau, sắc mặt vàng bủng, môi nhợt, lưỡi non nhạt, rêu trắng dày, mạch huyền, gan to 2,5cm, transaminase 500 đơn vị. Cho uống “ Mạn can lục vị ẩm” thêm Biển dậu 12g. Sau khi uống được nửa tháng, giảm đau sườn, tinh thần tốt lên, ăn ngon hơn, nhưng vẫn mệt mỏi. Bỏ Hoàng bì thu diệp, lại uống nửa tháng nữa, transaminase giảm còn 200 đơn vị. Cứ theo bài trên gia giảm mà uống 3 tháng liền, kiểm tra thấy đều bình thường kiên trì dùng thuốc nửa năm để củng cố tác dụng. Theo dõi 5 năm nữa chưa thấy bệnh tái phát.
Bàn luận: Viêm gan mạn là bệnh của can tì, nhưng chủ yếu là ở tì, tì hư là cộng tính của gốc bệnh, nên nguyên tắc chung để trị bệnh viêm gan mạn tính là kiện tì, bổ khí, phù thổ ức mộc: còn các chứng viêm gan mạn khác đều có thể trị bằng “Mạn can lục vị ẩm” gia giảm, mà đạt được hiệu quả tốt.
369. Viêm gan mạn tồn tại
Biện chứng đông y: Can âm hư kèm thấp.
Cách trị: Dưỡng âm bổ can thận, lợi thấp.
Đơn thuốc: Tam ô nhân trần thang gia vị.
Công thức: Thủ ô 15g, Ô mai 9g, Miễn nhân trần 15g, Đơn bì 9g, Thuyền y 4g, Sinh địa 12g, Đương quy 4g, Cam thảo 6g.
Sắc uống mỗi ngày một thang.
Hiệu quả lâm sàng: Trịnh X X, nam 45 tuổi Viêm gan mạn tính đã quá 7 năm, 3 năm trước kiểm tra đã từng phát hiện thấy HAA dương tính, 1 năm nay chuyển âm tính. Người bệnh chóng mặt, vùng gan có lúc đau, mỏi mệt, mặt đỏ, người bệu, miệng khô đắng, bứt dứt không ngủ, lưỡi đỏ rêu mỏng vàng hơi bẩn, mạch huyền tế sác. Gan dưới bờ sườn 1 cm, độ cứng I-II, không sờ thấy lách transaminase trên 500 đơn vị, phản ứng Hanger (+++), HAA (-), AFP (-) chuẩn đoán là viêm gan mạn tính tồn tại. Đây là thuộc bệnh can thận âm hư cộng thêm thấp, nên trị bằng phép cưỡng âm, bổ can thận, lợi thấp. Dùng “ Tam ô nhân trần thang gia vị” uống được 1 tháng thì transaminase còn 210 đơn vị, các chứng nói trên đều chuyển biến tốt. Lại dùng bài trên gia giảm thêm 1 tháng nữa, toàn bộ chức năng gan trở lại bình thường.
370. Viêm gan mạn tồn tại
Biện chứng đông y: Khí trệ, thấp trở.
Cách trị: Lí khí, khử thấp.
Đơn thuốc: Hoàng thũng hoàn.
Công thức: An quế 15g, Đinh hương 15g, Nhân trần 120g, Phụ phiến 60g, Khô phàn 45g, Gạo nếp 250g, Đỗ đen 100g, Nội kim 45g, Đậu khấu 24g.
Các vị thuốc trên tán nhỏ, rây, luyện với mật làm thành hòn to bằng hột đỗ nành. Mỗi lần uống 10g, mỗi ngày uống 3 lần, uống với nước trắng hoặc nước muối loãng.
Kiêng cá tanh, dầu mỡ, hành tỏi, ớt, gừng.
Hiệu quả lâm sàng: Hồ X, nữ 32 tuổi, nông dân. Bệnh nhân bụng trướng đầy mặt vàng, gầy gò, chân phù, kém ăn đại tiện bí, 2-3 ngày 1 lần, ngủ ít, chuẩn đoán lâm sàng viêm gan mạn tồn tại. Đã dùng một số thuốc hơn nửa năm không có kết quả. Dùng phép lí khí khử thấp, cho uống “ Hoàng thũng hoàn” được một liều, mọi chứng đều khỏi. Hơn nữa tình trạng bế kinh kéo dài nhiều năm cũng khỏi, nay lại có kinh.
Bàn luận: Hoàng thũng hoàn vồn là thuốc gia truyền. Trên lâm sàng dùng chữa bệnh viêm gan mạn tính tồn tại, Gan lách sưng to đều có tác dụng tốt, dần dần được chấp nhận sử dụng. Trong bài có Quế phụ, Khấu nhân để ôn bổ tì thận, Nhân trần, Nội kim để tả thấp nhiệt ở kinh can, Đinh hương, Đỗ đen, gạo nếp để kiện tì, nhất là vị Khô phàn rất hay, từ Tiêu thạch phàn thạch tan trong sách “ Kim quỹ” của trọng sư mà ra. Dùng bài này với các chứng trên kết quả rất tốt.
371. Viêm gan mạn tồn tại
Biến chứng đông y: Can âm hư kèm thấp.
Cách trị: Dưỡng âm bổ can thận, lợi thấp.
Đơn thuốc: Tam ô nhân trần thang gia vị.
Công thức: Thủ ô 15g, Ô đầu y 9g, Miễn nhân trần 15g, Đơn bì 9g, Thuyền y 4g, Sinh địa 12g, Đương quy 4g, Cam thảo 6g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Trịnh XX, nam, 45 tuổi, Viêm gan mạn tính đã quá 7 nǎm. 3 nǎm trước kiểm tra đã từng phát hiện thấy HAA dương tính, 1 nǎm nay chuyển âm tính. Người bệnh chóng mặt, vùng gan có lúc đau, mỏi mệt, người bệu, miệng khô đắng, bứt rứt không ngủ, lưỡi đỏ rêu mỏng vàng hơi bẩn, mạch huyền tế sác. Gan dưới bờ sườn 1cm, độ cứng I-II, không sờ thấy lách, transaminase trên 500đơn vị, phản ứng Hanger (+++), HAA (-), AFP (-), chẩn đoán là viêm gan mạn tính tồn tại. Đây là thuộc bệnh can thận âm hư cộng thêm thấp, nên trị bằng phép dưỡng âm, bổ can thận, lợi thấp. Dùng "Tam ô nhân trần thang gia vị", uống được 1 tháng thì transaminase còn 210 đơn vị, các chứng nói trên đều chuyển biến tốt. Lại dùng bài trên gia giảm thêm 1 tháng nữa, toàn bộ chức nǎng gan trở lại bình thường.
372. Viêm gan dai dẳng
Biện chứng đông y: Tà độc xâm nhập, can tì bị hại, thấp nhiệt nội uẩn.
Cách trị: Thanh can, tiết độc, hoạt huyết, giảm men.
Đơn thuốc: Thanh can giáng mai thang.
Công thức: Đương qui 3g, Xuyên khung 2g, Sinh địa 3g, Xích thược 3g, Bạch thược 3g, Xuyên liên 1,5g, Hồ liên 1g, Sơn bì 2g, Từ thảo 3g, Lưu ki nô 3g, Quỷ tiễn dực 3g, Lô hội 0,5g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Uống thuốc rồi thì lấy tình trạng đi ngoài để làm chuẩn, nếu không thấy dễ đi ngoài thì thêm Sinh đại hoàng 3g (cho sau) nếu vẫn chưa được thì thêm Nguyên minh phấn 3g (chiêu với nước thuốc).
Hiệu quả lâm sàng: Đã dùng “ Thanh can giáng mai thang” gia giảm dể trị tất cả 90 ca từ tháng 3-1973 đến tháng 2-1975, kiểm tra đều có transaminase bất thường kéo dài liệu trình 2-3 tháng, theo dõi 2-3 năm nữa. Trong số đó 66 ca có kết quả rõ (kiểm tra chức năng gan liền 3 lần thấy bình thường, các triệu chứng đều hết): 13 ca có chuyển biến tốt (hết các triệu chứng kiểm tra chức năng gan có biểu hiện bình thường), 13 ca có chuyển biến tốt được tiếp tục điều trị thì lại có 10 ca đạt các tiêu chuẩn công hiệu rõ rệt, 11 ca vô hiệu.
Bàn luận: Thực tiễn ứng dụng lâm sàng chứng tỏ hiệu quả của “ Thanh can giáng mai thang” gia giảm chữa bệnh viêm gan dai dẳng tương đối ổn định, ít có hiện tượng trở lại: hiệu quả điều trị và thời gian mắc bệnh không liên quan nhưng liên quan với liệu trình điều trị, liệu trình điều trị càng cao thì tác dụng điều trị càng tốt. Như vậy càng kiên trì uống thuốc thì hiệu quả càng tốt.
373. Viêm gan mạn tấn công
Biến chứng đông y: Can đởm uất nhiệt, vị thất hòa giáng.
Cách trị: Sơ can giải uất, thanh nhiệt hòa vị.
Đơn thuốc: Gia vị tứ nghịch tán (thang).
Công thức: Sài hồ 10g, Bạch thược 10g, Chỉ thực 10g, Uất kim 10g, Đan sâm 10-15g, Thần khúc 10g, Mạch nha 15g, Liên kiều 10-15g, Bản lam cǎn 15-20g, Hoắc hương 10g, Cam thảo 5g, Mao cǎn 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: lý XX, nữ, 38 tuổi, chẩn bệnh ngày 18-5-1974. Từ tháng 1-1975 mắc bệnh viêm gan cấp thể vàng da, nằm viện điều trị 3 tháng, khỏi về cơ bản, xuất viện. Nǎm 1974 phát lại, lại nằm viện 5 tháng, lúc đó transaminase không giảm, có lúc lên tới 600 đơn vị, bệnh nhân đã xin lên nằm bệnh viện tỉnh. Kiểm tra gan to, gan dưới bờ sườn 2cm, sờ chưa thấy lách. Transaminase 560 đơn vị, phản ứng Maclagan 20 đơn vị, phản ứng Hanger (+++), chỉ số hoàng đảm bình thường. Chẩn đoán chính xác là viêm gan mạn tấn công. Bệnh nhân còn thấy hai bên sườn đau chướng, ǎn uống không ngon, buồn nôn, tinh thần mệt mỏi, đại tiện lúc loãng lúc khô, tiểu tiện vàng đỏ, miệng đắng họng khô, có máu mủ, lòng bàn tay nóng, lưỡi đỏ, rêu trắng bẩn, mạch huyền hơi sác. Đó là can đởm uất nhiệt, vị không còn chức nǎng hòa giáng, chữa bằng phép sơ can giải uất thanh nhiệt hòa vị. Cho dùng "Gia vị tứ nghịch tán (thang)", bệnh nhân uống 30 thang, kiểm tra lại chức nǎng gan transaminase 125 đơn vị, phản ứng Maclagan 7 đơn vị, phản ứng Hanger (+), các chứng khác đều hết. Lại uống lại trên 20 thang, kiểm tra lại chức nǎng gan thì toàn bộ hồi phục như thường. Theo dõi 5 tháng chưa thấy có biến đổi gì khác thường.
Bàn luận: Dùng "Gia vị tứ nghịch tán (thang)" tùy bệnh nhân mà gia giảm, đối với viêm gan thể không vàng da, thể vàng da (sau khi về cơ bản đã hết vàng da), viêm gan mạn tính và men transaminase không giảm, đều có tác dụng tốt. Đã dùng bài này cho hơn 50 người bị các bệnh kể trên kết quả rất tốt.