237. Rối loạn chức nǎng ruột
Biện chứng đông y: Thoát lực, lao thương.
Cách trị: Kiện tì, bổ thận.
Đơn thuốc: Tứ vị thang gia vị.
Công thức: Đảng sâm 30g, Phục linh 15g, Bạch truật (sao) 15g, Chích cam thảo 6g, Kê huyết đằng 30g, Tiên hạc thảo 30g, Tiểu hồi (sao) 30g, Hồng táo 10 quả. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: lý XX, nam, 50 tuổi, nông dân. Tới khám 30-9-1977. Người bệnh khoảng tuần trước vào rừng chặt củi, ngã từ trên cao xuống. Buổi tối trở về thấy vùng quanh rốn đau ngâm ngẩm dai dẳng, thích ấn, kèm theo đau lưng, đại tiện phân nát, mỗi ngày 2-3 lần. Lưỡi nhạt, rêu trắng mỏng, mạch trầm tế. Chẩn đoán lâm sàng là rối loạn chức nǎng ruột. Bèn cho uống bài Tứ vị thang gia vị, cho dùng 3 thang, các chứng đều khỏi hết.
Bàn luận: Đông y cho rằng chứng rối loạn chức nǎng ruột phần lớn là do nhảy ngã, vác nặng hoặc quá lao lực gây ra. Trường hợp này là do khí vốn yếu lại nhảy mạnh làm cho tì thận khí bị tổn thương. Tì mà vận chuyển không khỏe, thǎng giáng thất thường, khí cơ không điều hoà, không thông thì đau, vì thế mà đau bụng phân nát. Thận chủ về đại tiểu tiện, lưng thuộc thận, thận hỏng thì lưng đau, tiểu tiện do thế mà thay đổi. Đau bụng thích ấn, lưỡi nhạt rêu trắng mạch trầm tế đều là biểu hiện của hư. Trong bài thuốc dùng tứ quân để kiến trung ích khí, phụ thêm có Kê huyết đằng, Tiên hạc thảo bổ thận, cầm ỉa. (Theo báo cáo, Tiên hạc thảo có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh đường ruột), Tiểu hồi tán hàn giảm đau, Đại táo nâng tì bổ trung. Các vị thuốc cùng có tác dụng kiện tì bổ thận, hành khí trán thống, nên chỉ cần uống 3 thang là bệnh khỏi.
238. Rối loạn chức nǎng ruột
Biện chứng đông y: Khí ẩm lưỡng thương, thấp đờm nội trở, tràng vị bất hòa.
Cách trị: Ích khí dưỡng âm, sơ can hòa vị, lí khí hóa đờm.
Đơn thuốc: Ích tràng thông tiện thang.
Công thức: Hoàng kì (sống) 24g, Tiên linh tì 15g, Đào hạnh nhân mỗi thứ 10g, Thạch hộc (tươi) 30g, Tì bà điệp (sống) 10g, Xích bạch thược mỗi thứ 15g, Sinh ngõa lặng 30g, Đao đậu tử 30g, Mộc qua 12g, Sinh khương 3g, Hương phụ 10g, Hà ngạnh 10g, Xuyên liên 4,5g, Tửu cầm 10g, gia vị bảo hòa hoàn 12g (bọc vào sắc). Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Dương X X, 47 tuổi. Đến khám ngày 16-7-1968. Hai mươi năm trước, bệnh nhân mắc bệnh lị, từ đó đại tiện bắt đầu không bình thường, luôn ỉa chảy, về sau phân ra ban đầu cứng sau nát, đi ngoài khó khăn, mỗi lần phải ngồi hàng tiếng đồng hồ. Tới một bệnh viện chụp phim uống barit, cho là niêm mạc đại tràng dầy. Ba năm lại đây đại tiện càng khó khăn, có khi phải đứng lên ngồi xuống kéo dài đến 2-3 giờ, phân thành rải nhỏ như cán bút, đôi khi nhìn bên ngoài có dịch nhầy, không có máu mủ. Do đại tiện khó khăn nên đau khổ vô chứng, trước sau đã đi nằm viện khám chữa tới 20 lần. Soi trực tràng không phát hiện có gì đặc biệt loại trừ khối u. Uống barit chiếu X quang thấy nhu động ruột chậm chạp, chuẩn đoán là rồi loạn chức năng ruột. Đã dùng bài thuốc đông y, thụt rửa berberin, chạy điện, chữa bằng nước, chữa bằng parafin, châm cứu…đủ các phương pháp mà không có kết quả rõ rệt. Bệnh nhân rất sợ để bụng bị lạnh. Hiện vẫn khó đi ngoài, mỗi lần đi vẫn phải ngồi đến 2 giờ mới ỉa được, phân nhỏ. Nhiều lần dùng thuốc dạng glycerin mà không có kết quả. Rêu lưỡi mỏng trắng, chất đỏ, mạch trầm tế. Cho uống Ích tràng thông tiện thang liên tục trong 1 tuần, đại tiện liền dễ dàng. Thời gian đi ngoài chỉ còn 20 phút. Thuốc đã đúng bệnh, cho tiếp tục uống để củng cố hiệu quả đi đến chỗ khỏi hoàn toàn.
Bàn luận: Người bệnh này sau khi mắc bệnh lị, thoạt đầu đại tiện không điều hòa, về sau đâu ra ỉa chảy, tiếp theo là khó đại tiện kéo dài đã hơn 20 năm. Uống berits chiếu điện thấy ruột nhu động chậm chạp, rõ ràng là ruột không có sức chuyển vận, thực ra là do khí hư đờm trở gây ra, cho nên dù có nhiều lần dùng thuốc đạn glycerin vẫn không giải quyết được gì. Mạch trầm tế, chất lưỡi đỏ chứng tỏ âm dịch đã bị thương tổn. Đi ngoài mà có lẫn dịch nhầy là thuộc thấp trệ chưa hết. Ỉa chảy lâu ngày là cả khí và âm đều bị thương tổn, thấp đờm nội trở, phủ khí không thông thoát, bởi vậy mà k hó đại tiện. Căn cứ và cơ chế bệnh, đối với những bệnh nhân này, quyết không được dùng bừa phép công hạ. Nếu công hạ thì càng tổn thương đến khí âm. Cho nên phải bắt đầu bằng lí khí hóa đờm. Bài thuốc sử dụng Sinh kì, Tiên linh tì, Thạch hộc tươi, Bạch thược để ích khí dưỡng âm, phù trợ chinh khí, khí mà đầy đủ thì huyết thông, huyết mà thông thoát thì khí thuận, khí mà thuận thì đờm tiêu: Bảo hòa hoàn, Sinh khương, Xuyên liên, Tửu cầm có tác dụng làm táo thấp hóa trọc tiêu trệ, khiến cho bổ mà không béo, tiêu mà không tổn hại: Đào đậu tử để ôn trung hành khí, ngõa lăng tử tiêu đờm tán kết, phối hợp với Hạnh nhân, Tì bà diệp, Mộc qua để hòa vị khai kết, khoan tràng lợi khí; Hương phụ, Hà ngạnh, Xích thược, Đào nhân đề hành khí hoạt huyết, làm cho khí thông huyết điều, đờm trở phải tan, kinh lạc thông, cạn bã chuyển hóa thuận lợi. Nhờ thế thời gian dùng thuốc tuy ngắn vẫn khiến cho bệnh hiểm chuyển biến tốt rõ ràng.