180. Lao hạch phổi kèm xẹp phổi ho ra máu
Biện chứng đông y: Bệnh phổi phạm vào tì “con” loạn thì “mẹ” sinh khí, tỳ mất chức năng vận kiện, khí huyết hư tổn, huyết không nuôi được tâm, phế tì, tâm cũng bị bệnh.
Cách trị: Bồi thổ sinh kim, ích khí dưỡng huyết, sinh tâm an thần.
Đơn thuốc: Gia giảm quy tì thang.
Công thức: Tây đẳng sâm 10g, Bạch truật (sao) 10g, Vân phục linh 10g, Chích hoàng kì 10g, Đương quy thân 10g, Chích viễn chi 6g, Táo nhân (sao) 10g, Mộc hương (nướng) 3g, Long nhãn nhục 15g, Tiêu lục khúc 10g, Chích cam thảo 3g, Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Chu X X, nam, tuổi 18, công nhân. Tới khám ngày 1-11-1973, bệnh nhân ho, thở dốc, trong đờm có máu, tim đập hồi hộp, mồ hôi trộm, ăn uống kém, ăn xong thường đầy bụng, ít ngủ, hay mê, đại tiện thường xuyên táo bón, thể trạng gầy gò, tóc không mượt, tinh thần mỏi mệt, mạch nhu hoãn, chất lưỡi đỏ nhạt, hai mép không đều nhau, rêu mỏng mà trắng. Năm 1971 đã điều trị tại bệnh viện chuẩn đoán là “ Viêm phế quản phổi”, điều trị hơn 20 ngày nhưng không thấy đỡ. Sau đó đã chụp X quang ở một bệnh viện khác, chuẩn đoán là lao hạch phổi, kèm xẹp thùy giữ phải, tiến hành điều trị chống lao, tuy đã điều trị hơn 1 năm, nhưng các triệu chứng chỉ thấy đỡ rất ít, sau đó chuyển đến viện chúng tôi xin điều trị. Cho dùng bài “ Gia giảm quy tì thang”. Sau khi uống liên tục 15 thang, trong đờm đã không còn máu, các triệu chứng khác đều có chuyển biến rõ rệt. Lưỡi và mạch khám thấy vẫn như cũ, cho dùng bài thuốc trên, uống thêm 20 thang nữa. Uống hết, các triệu chứng đều đã ổn định, mạch, lưỡi, bình hòa, nhưng bệnh nhân kể rằng răng bị lung lay, đau nhức và có cái đã rụng. Như vậy là thuốc đã hợp với bệnh, nhưng phế kim bệnh cũ đã lâu khó hồi phục, bệnh ở “mẹ” đã tác động tới “con”, làm cho thận suy tổn. Thận là chủ của cốt, răng là thuộc cốt, nên chứng răng lung lay không có gì là lạ. Lại cho dung tiếp bài thuốc này, uống thêm 30 thang nữa. Cho uống thêm “Bồ cốt cố xỉ thang”: Câu kỉ tử 10g, Ngọc cát cánh 10g, Cẩu cốt phấn 15g, sớm tối uống 1 lần, uống liền 2 tuần lễ. Ngày 1-5-1975 được biết bệnh nhân uống thuốc xong, ngừng thuốc đã hơn 1 năm, thân thể đã hồi phục khỏe mạnh, không thấy bệnh tái phát. Ngày 26-10-1978 tới thăm khuyên nên tới viện khám lại, chiếu điện thấy tim phổi bình thường.
Bàn luận: Trong trường hợp này là bệnh phế lao, có triệu chứng tâm, tì lưỡng hư, nhưng không thấy rõ chứng hỏa nhiệt. Điều trị bằng “ Quy tì thang” kết quả rất lý tưởng, huyết ở phế làm sao lại tự tâm tì? Chúng tôi cho rằng cái ngọn của đàm huyết là ở phế, gốc là ở tâm tì, tì không thống huyết, tâm không chủ huyết, ho ra máu lâu ngày, khí huyết đều hư, huyết không dưỡng tâm, tâm hỏa phạm phế, tì khí hư tổn, thổ không sinh kim, mà kiêng ăn các thức ăn cay, nóng, dưỡng tâm tì mà chỉ huyết, hơn nữa xây dựng “ Quy tì thang” cũng là để trị huyết chứng, chúng tôi đã nhiều năm nay ứng dụng thang này trên lâm sàng để điều trị bệnh lao phổi ho ra máu.